Người Cư Sĩ          [ Trở Về         [Trang chủ]

Trung Bộ Kinh - Bài Kinh số 109

Kinh  Dài Mãn Nguyệt
( Mahàpunnamasuttam )

- Greater Discourse ( At the Time ) Of A Full Moon -

Hòa thượng Thích Chơn Thiện


I. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ

* Đại Tạnh Kinh Việt Nam, 1992, tr.141, Trung III, ghi :

" Bạch Thế Tôn, do biết gì, do thất gì mà không có mạn tùy miên rằng :

' Ta là người làm, sở thuộc của ta là người làm,' đối với tự thân có ý thức và đối với tất cả tưởng ở ngoài ? "

* Nguyên bản Pàli của đoạn trên là :

" Katham pana, bhante, Jànato Katham passato imasmin ca savinnanake bahiddhà ca sabbanimittesu ahamkàramamamkàramànànusayàna hontìti ?"

* Bản dịch Anh ngữ, PTS, Oxford 1990, Vol III, p. 68 ghi :

" But, revered Sir, ( for a man ) knowing what, seeing what, are there no latent conceits that ' I am the doer, mine is the doer ' in regard to this consciousness - informed body and on the phenomena external to it ? "

* Phần Việt ngữ cần dịch sát ý là :

" Bạch Thế Tôn do biết gì, do thấy gì, đối với thân sắc có ý thức và đối với tất cả thế giới hiện hữu bên ngoài, không có mạn tùy miên rằng ; " Ta là người làm, người làm là của ta ".

II. NỘI DUNG KINH MÃN NGUYỆT

1. Lúc Thế Tôn trú ở Lộc mẫu Giảng Đường, thành Xá vệ, vào đêm trăng rằm, một Tỷ kheo đã bạch hỏi Thế Tôn mười câu hỏi rất đặc biệt về ngũ uẩn như sau :

1.1. Năm thủ uẩn : Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức thủ uẩn ?

Thế Tôn dạy : " Đúng vậy ".

1.2. Năm thủ uẩn lấy gì làm gốc rễ ?

Thế Tôn dạy : " Lấy dục làm gốc rễ "

1.3. Chính chấp thủ là Năm thủ uẩn, hay là ngoài Năm thủ uẩn có một chấp thủ khác ?

Thế Tôn dạy : " Không phải chính chấp thủ là Năm thủ uẩn, cũng không phải ngoài Năm thủ uẩn có một chấp thủ khác. Khi nào có lòng dục, lòng tham đối với Năm thủ uẩn, ở đây chính là chấp thủ.

1.4. " Phải chăng có sự sai khác trong lòng dục, lòng tham đối với Năm thủ uẩn?"

Thế Tôn dạy : " Có thể có " Có người nghĩ : mong rằng trong tương lai Sắc sẽ như thế nầy, Thọ..., Tưởng ..., Hành ..., Thức ... sẽ như thế nầy ? "

1.5. " Cho đến như thế nào là ý nghĩa chữ uẩn trong các uẩn ? "

Thế Tôn dạy : " Phàm Sắc gì, qúa khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là Sắc uẩn. Phàm ... Thọ uẩn. Phàm .., Tưởng uẩn. Phàm Thức gì ... , Thức uẩn ? "

1.6. " Do nhân gì, duyên gì được chấp nhận là Sắc uẩn ? ... Thọ uẩn ? ... Tưởng uẩn ? ... Hành uẩn ? ... Thức uẩn ? "...

Thế Tôn dạy :" Bốn đại là nhân, là duyên được chấp nhận là Sắc uẩn. Xúc là nhân, là duyên ... Thọ uẩn. Xúc ... Tưởng uẩn. Xúc là nhân là duyên được chấp nhận là Hành uẩn. Danh sắc là nhân, là duyên được chấp nhận là Thức uẩn ? "

1.7." Thế nào là thân kiến ? "

Thế Tôn dạy : " ... xem Sắc là tự ngã, hay xem tự ngã như là có Sắc, hay xem Sắc là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong sắc. Xem thọ là tự ngã ... Xem tưởng là tự ngã... Xem thức là tự ngã ... "

1.8. " Thế nào là không thân kiến ? "

Thế Tôn dạy : " ... Không xem Sắc là tự ngã ... không xem Thọ là tự ngã ..., không xem Tưởng là tự ngã ..., không xem Hành là tự ngã ..., không xem Thức là tự ngã ... "

1.9. " Cái gì là vị ngọt, sự nguy hiểmn, sự xuất ly của các uẩn ?

Thế Tôn dạy ; " Hỷ lạc là vị ngọt ... vô thường, biến hoại là nguy hiểm ..., nhiếp phục hỷ lạc, dục tham đối với các uẩn là sự xuất ly các uẩn ".

1.10. " Bạch Thế Tôn, do biết gì, do thấy gì, đối với thân sắc có ý thức và đối với tất cả hiện hữu ở bên ngoài ( hiện tượng giới ), không có mạn tùy miên rằng ' Ta là người làm, người làm là của Ta ' ? "

Thế Tôn dạy : " Thấy sắc ... thọ ... tưởng ... hành ... thức thấy như thật với trí tuệ rằng : " Cái nầy không phải của Ta, cái nầy không phải là Ta, cái nầy không phải là tự ngã của Ta "

2. Thế Tôn dạy như thế là vừa rõ ràng, đầy đủ, nhưng một vị Tỷ kheo khác bị ám ảnh bởi vô minh, chấp thủ tự ngã, nêu thêm một câu hỏi khác rằng :

" Nếu được nói rằng Sắc là vô ngã, Thọ là vô ngã, Tưởng là vô ngã, Hành là vô ngã, Thức là vô ngã, như vậy những hành động do vô ngã làm đãõ được ngã nào cảm thọ kết qủa ? "

Vị Tỷ kheo nầy đã bị Phật quở là thiếu trí tuệ để hiểu lời Thế Tôn dạy tất cả các pháp là do nhân duyên kết hợp mà có; và Sắc ( Thọ, Tưởng, Hành, Thức ) là vô thường dẫn đến khổ đau nên thật không hợp lý khi xem Sắc ( Thọ, Tưởng, Hành, Thức ) là : " Cái nầy là của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngã của tôi ".

3. Tưởng cũng cần lưu ý rằng : Khi thời Pháp nầy vừa kết thúc, thì có sáu mươi vịTỷ kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

III. BÀN THÊM

1. Bản kinh 109 là bản kinh về Ngũ thủ uẩn rất đặc biệt ( về Ngũ thủ uẩn, trọn Tương Ưng Bộ Kinh III đề cập rất đầy đủ ), cả đến câu hỏi thứ 11 của bản kinh, bị Thế Tôn quở trách, nhưng là câu hỏi mở ra nhiều vướng mắc của người đời. Câu hỏi sai một cách đầy ý vị !

2. Câu hỏi thứ hai về gốc rễ của Ngũ thủ uẩn, gợi ý rõ sự hiện hữu của con người là do đâu ? Thế Tôn đã dạy : " Lấy dục làm gốc rễ ". Dục vốn là căn nguyên của hiện hữu con người. Nói khác đi, dục là gốc của sinh tử khổ đau. Nó chẳng phải là nguyên nhân đầu tiên, mà do nhân duyên sanh như các pháp hữu vi khác : nó đến và đi một cách đầy mộng mị. Cái ngã gọi là con người cũng thế : nó đến và đi một cách đầy mộng mị !

3. Câu hỏi thứ ba : " Chính chấp thủ là Ngũ thủ uẩn " , hay ngoài " Ngũ thủ uẩn " có một chấp thủ khác ? "

Thế Tôn đã dạy : " Không phải chính chấp thủ là " Ngũ thủ uẩn, cũng không phải ngoài Ngũ thủ uẩn có một chấp thủ khác. Khi nào có lòng dục, lòng tham ái đốivới Ngũ thủ uẩn, ở đấy chính là chấp thủ ".

Tại đây ta nên nhớ rằng : sự chấp thủ, tâm chấp thủ và lòng dục, lòng tham là thuộc Hành uẩn, nên không thể nói nó ( chúng ) ở ngoài Ngũ thủ uẩn. Lại nữa, bốn uẩn kia không rời khỏi Hành uẩn, làm nên Hành uẩn, nên không thể nói chấpthủ và dục tham ở ngoài năm thủ uẩn.

Dù hành uẩn có mặt trong bốn uẩn còn lại, nhưng không thể nói chính chấp thủ uẩn, dục tham ở ngoài năm thủ uẩn.

Câu hỏi thứ ba nầy cũng tràn đầy ý vị ! nó là sản phẩm của tư duy hữu ngã, tư duy nhị nguyên, nổi bật sắc màu của triết lý phương Tây : phân rõ minhbiệt ( như triết lý của Descarte ) giữa một ngã thể là chấp thủ và một ngã thể là năm thủ uẩn nghe thật là mộng mị !

Câu trả lời của Thế Tôn hẳn là rất thực tại, rất trí tuệ và rất Phật guáo !

4. Lời dạy của Thế Tôn cho câu hỏi thứ năm, hay là định nghĩa của Thế Tôn về năm thủ uẩn, mở ra một phương trời nhận thức mới về con người và thế giới, về mối tương quan bất khả phân giữa các hiện hữu ( giữa vạn hữu ). Đây là nội dung mở ra một tư duy mới, một nền văn hoá mới cho trái đất giải tỏa được các bế tắc, khủng hoảng của nhân sinh, giải quyết có cơ sở cho các khủng hoảng đạo đức, môi sinh và xã hội mà tư duy phương Tây đang bế tắc.

5. Lời dạy của Thế Tôn cho câu hỏi thứ bảy và thứ tám là mở ra con mắt pháp cho đời, trừ được thân kiến là đắc " Pháp nhãn " thanh tịnh, ly trần ly cấu. Chỉ vì một vọng tưởng về một tự ngã thường hằng cho mọi hiện hữu mà tâm lý tham, sân, si khởi dậy kéo theo khổ đau và sinh tử. Con đường đi ra khỏi khổ đau sinh tử chính là sự nhiếp phục dục tham đối với các pháp, sự nhiếp phục chấp thủ ngã, không xem mọi hiện hữu ( trong và ngoài tâm ) là của Ta, là Ta, là tự ngã của Ta. Đây cũng là câu trả lời đúng cho câu hỏi thứ chín và câu hỏi thứ mười : chỉ sự xuất ly khỏi Năm thủ uẩn và chỉ rõ cách đoạn trừ mạn tùy miên ( mànànussayà ) : " Tôi là người làm, người làm là của tôi, điều mà vị Tỷ kheo thiếu giác tỉnh nêu ra trong câu hỏi thứ 11 của bản kinh.

6. Phân tích câu hỏi thứ 11 :

" Nếu được nói rằng Sắc là vô ngã , ..., như vậy những hành động do vô ngã làm đã được ngã nào cảm thọ kết qủa ? "

6.1. Hỏi như thế là tâm lý người hỏi có một sự minh định rất hữu ngã rằng : vô ngã là một ngã tính và ngã tính ấy không có mặt một chủ thể hành động nên không có chủ thể nào nhận lãnh trách nhiệm của hành động. Với người nêu ra câu hỏi trên, thì hàm ẩn một sự xác định rằng chỉ có các ngã thể, ngã tính ( hữu ngã ) hành động và chỉ có ngã thể nhận lãnh hậu qủa của hành động. Trên thực tế, chỉ có sự hiện hữu của các nhân, các duyên từ vô thỉ đến vô chung, mà không có một ngã thể nào có mặt, nói gì đến chuyện có một ngã thể hành động, một ngã thể nhận lãnh trách nhiệm về hành động ấy. Thực ra chủ thể hành động là duyên sinh vô ngã, hành động là duyên sinh, vô ngã và hậu qủa cùng người nhận lãnh hậu qủa đều duyên sinh vô ngã thảy. Mơ hồ thay câu hỏi.

6.2. Tất cả hiện hữu vốn sự thật là duyên sinh vô ngã, nên chỉ có lòng dục và chấp thủ ngã hành động, và chỉ có lòng dục và chấp thủ nhận lãnh hậu qủa của hành động. Sự sống và thực tại thì không phải là những gì của " logic ", của tư duy ngã tính, ai giác tỉnh được sự thật vô ngã thì tâm lý liền khởi sinh vô tham, vô sân, vô si. Với tâm lý vô dục, vô thủ trước thì cái gọi là nghiệp ( Kamma = Volitional action ) không được thành lập, dựa vào đâu mà nói tâm thức ấy tạo tác nghiệp và tâm thức ấy cảm thọ hậu qủa ? (!) Vì đó là sự thật nên sự kiện giải thoát nghiệp, giải thoát khổ đau, hay giải thoát mới có mặt. Trên thực tế, giải thoát có mặt, như Thế Tôn và các đệ tử là các bậc A-la-hán đã chứng tỏ. Khi giải thoát đã có mặt thì sự kiện gọi là thọ qủa của các nghiệp thiện, ác chỉ là sự hiện diện như là sự hiện diện của lông rùa, sừng thỏ, của giờ thứ 25, của xứ thứ 13, của giới thứ 19 vậy.

Điều quan trọng nhất đối với người nêu ra câu hỏi đầy ngờ vực thứ 11 là, trở về với tinh thần thiết thực hiện tại và trí tuệ của Phật giáo, là ý thức rõ rằng : dục vọng gây ra khổ đau, và nhiếp phục dục vọng để chấm đứt khổ đau : đây là mục tiêu của phạm hạnh mà không phải là huyền đàm, dong ruổi vào thế giới của khái niệm.

Chỉ có 10 câu hỏi đầu của bản kinh là đi vào truyền thống của kinh tạng Phật giáo mở ra các bước đi định và tuệ rất lợi lạc, sáng tỏ như trăng rằm.

-ooOoo-


[Trích giảng Trung Bộ]

last updated: 01 -12-2005