Người Cư Sĩ          [ Trở Về        [Home Page]

Kinh Hai Niết Bàn
Thích Thiện Châu
I - Giới Thiệu

Niết bàn là mục đích của đạo Phật và cũng là lý tưởng của những người muốn hết KHỔ . Người ta nói nhiều về Niết bàn nhưng không mấy người hiểu Niết bàn một cách đúng đắn. Có người hiểu sai Niết bàn như cõi "hư vô tịch diệt" - cảnh giới không không, chẳng có sự sống giống như hư không trống lặng ở trần thế nầy. Có người hiểu lầm Niết bàn như cảnh Thiên đàng sung sướng cả tinh thần lẫn vật chất. Và hầu hết nghĩ rằng Niết bàn là phần thưởng kiếp sau của người tu hành theo đạo Phật. Lại có người nghĩ rằng sở dĩ Phật tổ cố ý không nói đến Niết bàn là vì sợ đồ đệ biết rõ Niết bàn là trống lặng sẽ thối chí, rút lui, không tu hành nữa.

Thật là khó cho những người đang sốt rét hiểu biết sự mát mẻ lành mạnh nơi người có sức khoẻ. Cũng vậy, không dễ gì cho chúng sanh đang trôi nổi trong biển luân hồi hiểu biết sự an tịnh nơi A la hán hay Phật.

Chính Phật tổ minh xác rằng có Niết bàn song người thường không thể hiểu được một cách dễ dàng (xem Udâna, trang 80; Itivuttaka, II, 6). Sự thật, Phật nói rõ về Niết bàn song không nhiều bằng về con đường đưa đến Niết bàn. Ðiều nầy thật dễ hiểu bởi vì thầy giỏi bao giờ cũng nói nhiều về những điều làm cho học trò hết dốt mà nói ít về sự hết dốt. Muốn hiểu đúng đắn Niết bàn, trước hết hãy đọc hay nghe những lời Phật dạy về Niết bàn.

Kinh Hai Niết bàn rút từ tập "Phật thuyết như vậy" (Itivuttaka, Pâli Text Society, trang 88). Nội dung kinh là Phật giảng về hai thứ Niết bàn : Niết bàn có dư y (saupâdisesunibbâna) và Niết bàn không dư y (anupâdisesanibbâna).

Trước hết hãy tìm hiểu ý nghĩa của danh từ Niết bàn.

Hiện nay danh từ chữ Sanskrit : Nirvâna thông dụng hơn danh từ Pâli: Nibbâna. Nir + vâ : ngừng thổi, tắt. Gió phiền não hay tham dục không thổi nữa; lửa tham sân si đã bị dập tắt. Lửa nóng tắt thì mát mẻ thể hiện. Niết bàn là chơn lý cao cả thứ ba được thực hiện bằng con đường đưa đến Niết bàn, tám chánh đạo, tức là chơn lý cao cả thứ tư. Chơn lý cao cả thứ ba (DIỆT) và chơn lý cao cả thứ tư (ÑẠO) thuộc về lý tưởng giải thoát trong khi đó chơn lý cao cả thứ nhất (KHỔ) và chơn lý cao cả thứ hai (KHỔ NHÂN) thuộc về cuộc đời đau khổ.

Niết bàn có thể thực hiện ở đây và bây giờ bằng tám chánh đạo; nói cách khác giác ngộ giải thoát là kết quả có thể thấy ngay trong đời nầy. Người tu hành có thể thực hiện Niết bàn lần lần trong quá trình tu dưỡng và đắc đạo từ đạo quả Tu đà hoàn (sotapatti), Tư đà hàm (sakadâgâmi), A na hàm (anâgâmi) và A la hán (anahatta). Chứng A la hán tức là đạt được Niết bàn toàn phần. Khi chứng quả A la hán hay thành Phật, (Phật trong định nghĩa giải thoát là một vị A la hán), các vị nầy vẫn sống "bình thường" với thân 5 uẩn (kết quả của nghiệp quá khứ), vẫn biết những gì vừa ý hay không vừa ý, vẫn có những cảm giác khổ vui song không còn chịu đau khổ và nhất là không tạo nghiệp mới để phải sống chết trong tương lai, ấy gọi là Niết ban có dư y.

Còn Niết bàn không dư y là Niết bàn khi bậc A la hán hay Phật qua đời, thân 5 uẩn bị tiêu hoại ; Lúc bấy giờ tất cả cảm giác không hỷ lạc biến mất hay trở thành mát dịu và sau đó chỉ còn an tịnh của Niết bàn trọn vẹn (parinirvâna).

Kinh điển không những diễn tả mặt "tiêu cực" của Niết bàn như :
"Niết bàn là sự tiêu diệt của tham, sân, si" (Sn, IV, 251)
mà cũng có nói đến mặt "tích cực" của Niết bàn như : mát mẻ (nibutti), tĩnh lặng (santi), thanh tịnh (visuddhi), bình an (santa), giải thoát (mokkha), bất tử (amata), tuyệt đối (kevala), cát tường (siva) v.v... (Sn, IV, 357) và một hình ảnh rất quen thuộc mà ý nghĩa là sự an toàn cũng được dùng để chỉ cho Niết bàn : hòn đảo (dîpa) :

"Thế Tôn nói Kappa
Những ai đứng giữa nước mạnh
trong giòng nước chẩy
Giữa sợ hãi lớn lao
Ta nói ngươi hòn đảo
Cho những ai đang bị
Già và chết chinh phục
Hòn đảo vô song nầy
Không sở hữu chấp trước
Ta nói ngươi Niết bàn
Già chết được đoạn diệt
Biết vậy giữ chánh niệm
Hiện tại đạt mát lạnh
Không rơi vào ma lực
Không tùy tùng theo ma"
            Kinh tập 1903 - 1905


Niết bàn là an lành tuyệt đói, vượt lên trên sự vui khổ tương đối của cuộc đời. Có an lành là có cảm thọ, song cảm thọ nơi A la hán và Phật là tâm lý đặc biệt như tôn giả Sâriputta trả lời cho tôn giả Udâyü :
"Hiền giả, dù nơi đó không có cảm thọ song vẫn là an lành" (An.IV.414)

Có thể nói an lành của Niết bàn là sự chứng nhiệm bản thân :
                    "Có ăn chanh mới biết chanh chua
                      Có đi chùa mới biết chùa vui"

Niết bàn là an lành được thể hiện nơi bản thân của mỗi hữu tình giác ngộ giải thoát. Vì thế, cuộc sống xây dựng bởi những hữu tình giác ngộ sẽ là cuộc sống an lành không bóc lột, giết hại và tối tăm. Ðiều nầy thật là rõ ràng. Ví dụ một cư sĩ chứng được đạo quả thứ hai - Tư đà hàm (nghĩa là không tàn bạo, tham lam, không mê tín dị đoan, có đạo đức và không có quan niệm sai lầm về cái ta) là người đạt được một phần an lành và cũng là người tốt, có ích cho một xã hội hòa bình thịnh vượng. Như vậy, Niết bàn có mặt trong đời nầy mà cả đời sau. Niết bàn trong đời nầy, chúng ta có thể nói và hiểu được phần nào, song Niết bàn không-dư-y thì người thường khó mà nói và hiểu được bởi vì ý niệm và ngôn ngữ tương đối không thể nhận thức và diễn tả thực tế tuyệt đối :

"Với người đến tận cùng
Không thể còn ước lượng
Với gì nói đến đó
Không còn có cái ấy
Khi tất cả Pháp
Ðã được nhổ hẳn lên
Mọi con đường nói phô (!)
Ðược nhổ lên sạch hết"
                    Kinh tập, 1076
Nói tóm lại, qua kinh Hai Niết bàn, chúng ta hiểu được Niết bàn là an lành, có mặt trong cuộc sống hiện tại và cũng thể hiện trong tương lai sau khi thân nầy tan rã.

II - Chánh Kinh

Tôi nghe điều nầy do chính Thế Tôn và A la hán nói :

Các Tỳ Kheo, có hai thứ Niết bàn (nibbânadhâtu). Những gì là hai ? Niết bàn có dư y và Niết bàn không dư y. Các Tỳ kheo, thế nào là Niết bàn có dư y ? Các Tỳ kheo, ở đây vị Tỳ kheo là bậc A la hán, hết các lậu hoặc (1), hoàn thành phạm hạnh (2), làm xong việc nên làm , đặt xuống gánh nặng (3), đạt đến mục đích, hết sạch hữu kiết sử (Bhavasamjoyana) (4), giải thoát do chánh trí (5). Nơi vị ấy, 5 căn vẫn tồn tại (6); Vì bản thân không bị tiêu hoại nên vị ấy lý giải điều vừa ý và điều không vừa ý, và cảm giác vui khổ. Các Tỳ kheo, nơi vị ấy tham hết, sân hết, si hết, ấy gọi là Niết bàn có dư y (7).

Các Tỳ kheo, thế nào gọi là Niết bàn không dư y ? Các Tỳ kheo, ở đây vị Tỳ kheo là bậc A la hán, hết các lậu hoặc, hoàn thành phạm hạnh, làm xong việc nên làm, đặt xuống gánh nặng, đạt đến mục đích, hết sạch hữu kiết sử, giải thoát do chánh trí. Các Tỳ kheo, ở đây, nơi vị ấy, tất cả cảm giác không hỷ lạc (sabbavedayitâni anabhinanditâni) đều mát dịu (8); Các Tỳ kheo, ấy gọi là Niết bàn không dư y (9).

Các Tỳ kheo, đây là hai thứ Niết bàn.

Sau khi Thế tôn nói lên ý nghĩa nầy, Ngài nói lại điều ấy như sau :

"Như thế, trong hai thứ Niết bàn không sở y do bậc có mắt thuyết minh : một thứ thuộc đời hiện tại, có dư y, sức dẫn đến sanh hữu bị diệt hết.

Không dư y lại thuộc đời sau, ở đó tất cả sanh hữu đều hoại diệt. Như vậy những ai, với chánh trí, biết con đường vô vi (10), chứng tâm giải thoát (11), sức dẫn đến sanh hữu bị diệt hết sẽ đạt được gốc lõi các pháp, hoan hỷ trong sự diệt hết, sẽ từ bỏ tất cả sanh hữu (12)."

Ý nghĩa nầy được Thế tôn nói đến và tôi được nghe.

III - Chú Thích

(1) Lậu hoặc (âsava) : sự mê lầm (hoặc) làm cho chúng sanh lưu chuyển trong vòng sống chết;
Có 4 thứ : dục lậu hoặc (kâma-) lậu hoặc do vật dục, hữu lậu hoặc (bhava-) lậu hoặc do hiện hữu, kiến lậu hoặc (avijja-) lậu hoặc do vô minh. 4 lậu hoặc này cũng gọi là lũ lụt (ogha) hay gông ách (yoga). Trừ bỏ hết 4 lậu hoặc này thì chứng A la hán.

(2) Phạm hạnh (Vusita, bhramacariya): đời sống thanh tịnh, chỉ cho đời sống của những người tu hành xuấ gia hay cư sĩ trong những ngày thọ 8 trai giới.

(3) Gánh nặng (bhâva) : chỉ cho thân do 5 uẩn (khandha) họp thành đầy khổ não.

(4) Hữu kiết sử (bhavasamyojana): 10 kiết sử làm cho chúng sanh sống chết : 1.Ngã chấp, 2.Nghi, 3. Giới cấm thủ, 4.Tham dục, 5.Sân hận, 6.Tham sắc giới, 7.Tham vô sắc giới, 8. Mạn, 9. Loạn động, 10.Vô minh.

(5) Giải thoát do chánh trí (sammadãnâvimutta) : nhờ chánh trí thấy biết sự vật đúng đắn mà không còn bị ràng buộc nữa; ví dụ hiểu rõ đạo lý vô thường, vô ngã, khổ mà người ta không còn khổ đau do mê lầm cuộc đời là thường còn, chắc chắn và vui sướng gây nên.

(6) Năm căn (indriya) : 5 giác quan : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.

(7) Niết bàn có dư y (saupâdisesanibbâna) : Tuy tất cả phiền não đã được trừ sạch, song thân 5 uẩn, kết quả của nghiệp quá khứ, vẫn tồn tại nên gọi là có dư y (upâdi); Chỉ cho Niết bàn nơi A la hán hay Phật, sau khi giác ngộ giải thoát vẫn còn sống trên đời như mọi người.

(8) Tất cả cảm giác không hỷ lạc đều mát dịu (sabbavedayitâni anabhinanditâni sitibhavissanti) : Khi Niết bàn không dư y thể hiện tức là lúc A la hán hay Phật lâm chung, thì các cảm giác không hỷ lạc (vốn tồn tại trong khi các vị ấy còn sống với thân 5 uẩn) đýu bị tiêu hoại mát dịu. Như thế có nghĩa là sau khi thân 5 uẩn tiêu hoại thì nơi A la hán và Phật chỉ còn an lạc mà không còn có cảm giác "không hỷ lạc" nữa. Ðiều này cũng giải thích phần nào thế nào là Niết bàn không dư y.

(9) Niết bàn không dư y (anupâdisesanibbânadhâtu) : Niết bàn sau khi thân 5 uẩn không còn nữa cũng gọi là Niết bàn trọn vẹn (parinibbâna). Ở đây có nghĩa là sau khi A la hán hay Phật chết thì Niết bàn không dư y thể hiện.

(10) Con đường vô vi (padam asãnkhatam) : Vô vi ở đây tức là Niết bàn, khác với các pháp hữu vi là bị cấu tạo tương đối ; Vô vi là không bị cấu tạo tuyệt đối. Vô vi trong đạo lý nhà Phật không hề có nghĩa không làm gì hết.

(11) Tâm giải thoát (vimuttacitta): có hai loại giải thoát : Tâm giải thoát (cetovimutti) và Tuệ giải thoát (pãnnãvimutti). Tâm giải thoát là giải thoát bằng định (samadhi) trong A la hán đạo (Arahattamagga) và Tuệ giải thoát là giải thoát được thực hiện bằng tuệ (Arahattaphala) (Xem An.V.142).

(12) Sanh hữu (bhava): nghĩa là không còn tái sanh trong ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.

( Chân thành cám ơn Ðh Ðoàn Viết Hiệp đã có thiện tâm giúp đánh máy vi tính )


[ Trở Về ]